Monday, February 9, 2015

10 sự kiện tiêu biểu của ngành y tế trong năm 2014

Ngày 5/2, Bộ Y tế đã công bố 10 sự kiện tiêu biểu trong năm 2014 về công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

1. Đường dây nóng hoạt động hiệu quả

Trong năm 2014, Bộ Y tế thiết lập và tổ chức đồng bộ hệ thống Tổng đài tự động đường dây nóng 1900-9095.



Cán bộ y tế Bệnh viện Bạch Mai hướng dẫn bệnh nhân làm thủ tục tại bệnh viện. (Ảnh: Dương Ngọc/TTXVN)

Đường dây nóng không chỉ là kênh tiếp nhận thông tin phản hồi của người dân mà còn là công cụ giám sát hữu hiệu, giúp lãnh đạo các bệnh viện nắm bắt và giải quyết kịp thời những vấn đề liên quan đến chất lượng khám chữa bệnh.

Trong năm 2014 đã có 98.760 cuộc gọi của người dân đến Đường dây nóng ngành y tế. Qua các nội dung phản ánh của người dân, Bộ trưởng Bộ Y tế đã chỉ đạo quyết liệt việc tiếp nhận, kiểm tra thông tin phản ánh và xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm.

Kết quả đã có 6.807 cán bộ bị nhắc nhở, 137 cán bộ bị khiển trách, 6 cán bộ bị cách chức và 4 cán bộ bị nghỉ việc…

Bên cạnh các trường hợp bị xử lý nghiêm khắc, cũng từ thông tin phản ánh đến đường dây nóng, các đơn vị trong ngành y tế đã khen thưởng 229 tập thể, cá nhân vì những thành tích xuất sắc, hết lòng tận tình phục vụ người bệnh.

2. Ổn định nhân sự trạm y tế xã phường


Bác sỹ Trạm Y tế xã Ba Điền, huyện miền núi Ba Tơ (Quảng Ngãi) khám chữa bệnh cho nhân dân. (Ảnh: Phước Ngọc/TTXVN)

Trong năm qua, Bộ Y tế tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định 117/2014/NĐ-CP.

Sau 20 năm (1994 - 2014), lần đầu tiên Trạm Y tế xã, phường, thị trấn được ổn định, chính thức thuộc Trung tâm Y tế huyện, cán bộ y tế xã chính thức là viên chức; Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân xã quan tâm, đầu tư cho trạm y tế xã, phường, thị trấn.

Bộ Y tế đánh giá, việc triển khai Nghị định tại thời điểm hiện nay có tác động đến đội ngũ cán bộ y tế đang thuộc diện hợp đồng theo Quyết định 58/QĐ-TTg, tạo niềm tin cho đội ngũ y tế cơ sở yên tâm công tác, có điều kiện học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân.

3. Giảm quá tải bệnh viện


Bệnh nhân nằm điều trị ở Bệnh viện Bạch Mai. (Ảnh: Dương Ngọc/TTXVN)

Năm 2014, với những nỗ lực không ngừng vì người bệnh, ngành y tế đã triển khai quyết liệt các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, giảm tải bệnh viện, hướng tới sự hài lòng của người bệnh.

Đến nay, đã có 15 bệnh viện tuyến trung ương cam kết không còn người bệnh nằm ghép giường bệnh trong thời gian điều trị nội trú. Đáng ghi nhận 58% số bệnh viện tuyến Trung ương, 47% số bệnh viện tuyến tỉnh đã giảm hẳn số giường nằm ghép ở một số khoa; đồng thời tăng công suất sử dụng giường bệnh tại 25% số bệnh viện tuyến huyện; giảm thời gian chờ khám gần 50 phút/lượt khám, tiết kiệm 27 triệu ngày công lao động/năm.

4.Tổ chức thành công Hội nghị Bộ trưởng Y tế ASEAN



Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chụp ảnh chung với các đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Đức Tám/TTXVN)

Hội nghị Bộ trưởng Y tế ASEAN lần thứ 12 và các hội nghị liên quan như Hội nghị Bộ trưởng Y tế ASEAN+3 lần thứ 6, Hội nghị Bộ trưởng Y tế ASEAN+Trung Quốc lần thứ 5 lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam đã thành công tốt đẹp.

Tại hội nghị này các Bộ trưởng Y tế ASEAN đã thông qua các chiến lược, chính sách y tế của khu vực, thảo luận và giải quyết các vấn đề y tế nổi bật của khu vực với mục tiêu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân, hội nhập y tế quốc tế.

5. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế

Năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế được Quốc hội thông qua.


Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế. (Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN)

Bộ Y tế đã trình Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế với nhiều điểm mới nổi bật mang tính đột phá và hội nhập thúc đẩy lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.

Những nội dung nổi bật mang tính đột phá như: Bắt buộc tham gia bảo hiểm y tế; Thực hiện bảo hiểm y tế theo hình thức hộ gia đình; Mở rộng phạm vi quyền lợi và mức hưởng bảo hiểm y tế như bỏ tỷ lệ đồng chi trả đối với người nghèo, giảm tỷ lệ đồng chi trả từ 20% xuống còn 5% đối với đối tượng người thuộc hộ gia đình cận nghèo; Tạo thuận lợi để người tham gia bảo hiểm y tế tiếp cận dịch vụ y tế có chất lượng, phù hợp với nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh thông qua việc mở thông tuyến chuyên môn kỹ thuật trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế...

6. Ứng dụng thành công nhiều kỹ thuật hiện đại


Phẫu thuật nội soi bằng robot ở Bệnh viện Nhi Trung ương. (Ảnh: Dương Ngọc/TTXVN)

Ngành y tế Việt Nam tiếp tục làm chủ được công nghệ sản xuất một số vắcxin mới, thành công về ghép đa tạng, ghép tế bào gốc, ứng dụng robot phẫu thuật, ghép tim và các bộ phận cơ thể người… đạt trình độ ngang tầm y học các nước tiên tiến trên thế giới.

Những kết quả đó không những cứu sống mà còn lại mang lại chất lượng cuộc sống tốt hơn cho nhiều bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo.

7. Ngăn chặn thành công các bệnh nguy hiểm


Kiểm soát dịch bệnh Ebola tại cửa khẩu sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. (Ảnh: Hoàng Hải/TTXVN)

Ngành y tế Việt Nam đã ngăn chặn thành công các bệnh, dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên thế giới không để xâm nhập vào Việt Nam như Ebola, cúm A (H7N9), MersCo-V…

Năm 2014 Bộ Y tế tiến hành triển khai chiến dịch tiêm vắcxin sởi-rubella miễn phí có quy mô lớn nhất từ trước đến nay cho 23 triệu trẻ em từ 1 đến 14 tuổi trên toàn quốc.

8. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính


Bộ Y tế đã hoàn thành cải cách thủ tục hành chính lĩnh vực an toàn thực phẩm. (Ảnh: An Hiếu/TTXVN)

Lần đầu tiên, Bộ Y tế triển khai 3 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 đối với các thủ tục hành chính về lĩnh vực an toàn thực phẩm như: Cấp Giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy, Giấy xác nhận phù hợp quy định an toàn thực phẩm và Chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm.

Dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 giúp doanh nghiệp nộp hồ sơ, thanh toán hoàn toàn trực tuyến ở những nơi có thể kết nối Internet, giúp tiết kiệm kinh phí, nhân lực, thời gian và tạo sự công khai, minh bạch trong thực hiện dịch vụ công.

9. Tỷ số chênh lệch giới tính khi sinh giảm


Ảnh minh họa. (Ảnh: Dương Ngọc/TTXVN)

Năm 2014 cũng là năm có tỷ số chênh lệch giới tính khi sinh tại Việt Nam giảm lần đầu tiên sau 8 năm tăng liên tục kể từ năm 2006.

Tỷ số chênh lệch giới tính khi sinh tại Việt Nam giảm được 1,6 điểm %, từ 113,8 trẻ trai/100 trẻ gái năm 2013 xuống còn 112,2 trẻ trai/100 trẻ gái nhờ sự nỗ lực chung tay vào cuộc của các cấp, các ngành, các tổ chức và nhân dân cả nước…

10. Phong trào ngành y tế cùng ngư dân bám biển


Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến trao tủ thuốc y tế gia đình cho các ngư dân Đà Nẵng. (Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN)

Phong trào ngành y tế cùng ngư dân bám biển đã được Bộ Y tế phát động tại huyện đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi và triển khai thực hiện từ tháng 5/2014.

Phong trào với những việc làm thiết thực như: tặng hàng trăm tủ thuốc, trang thiết bị y tế cho tàu cá đánh bắt xa bờ; gắn việc chăm sóc sức khỏe ngư dân với phát triển kinh tế biển đảo và bảo vệ chủ quyền Tổ quốc./.

Sunday, February 8, 2015

Chiến lược phát triển quốc gia ngành dược Việt Nam

Ngày 6/12, tại Hà Nội, Bộ Y tế phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tổ chức Hội nghị triển khai Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Phạm Lê Tuấn cho biết, thời gian qua, bên cạnh sự phát triển nội lực, ngành Dược Việt Nam đã chủ động hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm đảm bảo cung ứng đủ thuốc có chất lượng và bảo đảm sử dụng thuốc an toàn, hợp lý, hiệu quả, góp phần quan trọng trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tính đến tháng 11 vừa qua đã có 133 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc.

Việt Nam là một trong số ít quốc gia sản xuất được vắc xin với 12 loại vắcxin, sử dụng phòng 10/12 bệnh trong Chương trình tiêm chủng mở rộng. Hiện có khoảng 10.000 nhà thuốc đạt tiêu chuẩn GPP, hệ thống bán lẻ thuốc đạt trên 39.000 điểm, góp phần đảm bảo cung ứng thường xuyên thuốc phòng, chữa bệnh cho người dân...


Tuy nhiên, Thứ trưởng Phạm Lê Tuấn cũng đánh giá, công nghiệp Dược Việt Nam là ngành công nghiệp bào chế, sản xuất thuốc generic, đa phần có dạng bào chế đơn giản, chi phí cho nghiên cứu và phát triển thấp, cơ cấu sản phẩm trung lắp, tự phát, thiếu định hướng vĩ mô, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.

Ngành chưa phát huy được tiềm năng của dược liệu và thuốc từ dược liệu Việt Nam, tình trạng dược liệu không kiểm soát được nguồn gốc, tỷ lệ dược liệu kém chất lượng còn cao; sự kết hợp giữa quy hoạch vùng nuôi trồng, khai thác dược liệu với sản xuất thuốc từ dược liệu còn lỏng lẻo, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thuốc từ dược liệu.

Hiện nay, hệ thống phân phối thuốc của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu về trình độ và công nghệ quản lý, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, thiếu liên kết, nhiều tầng nấc trung gian. Ngành dược Việt Nam chưa giữ được thế chủ động để giảm sự phụ thuộc nước ngoài, đặc biệt trong việc điều tiết thị trường, quản lý giá, bảo đảm nguồn cung thuốc chuyên khoa, đặc trị, vắcxin khi có dịch bệnh.

Vấn đề lạm dụng thuốc, sử dụng thuốc chưa hợp lý, chưa an toàn do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường làm tăng chi phí khám chữa bệnh của người dân và ngân sách Nhà nước, trong khi vai trò của dược sỹ lâm sàng trong việc tư vấn, cung cấp thông tin, hướng dẫn sử dụng thuốc hợp lý cho bác sỹ, bệnh nhân trong cơ sở y tế, công đồng còn rất mờ nhạt, nhiều nơi còn bỏ ngỏ….

Tại hội nghị, các đại biểu đã nghe giới thiệu tổng quan về Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và kế hoạch triển khai của Bộ Y tế; các tham luận về thực trạng và giải pháp tăng cường sử dụng thuốc an toàn và hợp lý, các hoạt động phát triển sản phẩm quốc gia đối với vắcxin phòng bệnh cho người…

Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 đề ra m ục tiêu cụ thể đến năm 2020 là 100% thuốc được cung ứng kịp thời cho nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh; phấn đấu sản xuất được 20% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thuốc trong nước, thuốc sản xuất trong nước chiếm 80% tổng giá trị thuốc tiêu thụ trong năm.

Trong số đó thuốc từ dược liệu chiếm 30%; vắcxin sản xuất trong nước đáp ứng 100% nhu cầu cho tiêm chủng mở rộng và 30% nhu cầu cho tiêm chủng dịch vụ.

100% cơ sở kinh doanh thuốc thuộc hệ thống phân phối thuốc đạt tiêu chuẩn thực hành tốt, 50% cơ sở kiểm nghiệm và 100% cơ sở kiểm định vắcxin và sinh phẩm y tế đạt tiêu chuẩn thực hành tốt; đạt tỷ lệ 2,5 dược sỹ/10.000 dân, trong đó dược sỹ lâm sàng chiếm 30%.

Đến năm 2030 đạt mục tiêu thuốc sản xuất trong nước cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng, sản xuất được thuốc chuyên khoa đặc trị, chủ động sản xuất vắcxin, sinh phẩm cho phòng chống dịch bệnh, sản xuất được nguyên liệu làm thuốc.

Hệ thống kiểm nghiệm, phân phối thuốc, công tác dược lâm sàng, thông tin thuốc ngang bằng các nước tiên tiến trong khu vực./.
Nguồn: Vietnamplus.vn

Chiến lược, tầm nhìn ngành dược phẩm 2020-2030

Ngày 10 tháng 1 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 68/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Mục tiêu chung: Cung ứng đầy đủ, kịp thời, có chất lượng, giá hợp lý các loại thuốc theo cơ cấu bệnh tật tương ứng với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm sử dụng thuốc an toàn, hợp lý. Chú trọng cung ứng thuốc cho đối tượng thuộc diện chính sách xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, vùng sâu, vùng xa.


Đế năm 2010, phấn đấu sản xuất được 20% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thuốc trong nước, thuốc sản xuất trong nước chiếm 80% tổng giá trị thuốc tiêu thụ trong năm, trong đó thuốc từ dược liệu chiếm 30%; vắc xin sản xuất trong nước đáp ứng 100% nhu cầu cho tiêm chủng mở rộng và 30% nhu cầu cho tiêm chủng dịch vụ. 100% cơ sở kinh doanh thuốc thuộc hệ thống phân phối thuốc đạt tiêu chuẩn thực hành tốt, 50% cơ sở kiểm nghiệm và 100% cơ sở kiểm định vắc xin và sinh phẩm y tế đạt tiêu chuẩn thực hành tốt (GPs).

Mục tiêu định hướng đến năm 2030: Thuốc sản xuất trong nước cơ bản đáp ứng nhu cầu sử dụng, sản xuất được thuốc chuyên khoa đặc trị, chủ động sản xuất vắc xin, sinh phẩm cho phòng chống dịch bệnh, sản xuất được nguyên liệu làm thuốc. Hệ thống kiểm nghiệm, phân phối thuốc, công tác dược lâm sàng, thông tin thuốc ngang bằng các nước tiên tiến trong khu vực.

Các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Chiến lược:

1. Giải pháp về xây dựng pháp luật, cơ chế chính sách: sửa đổi, bổ sung Luật dược; ban hành chính sách ưu đãi đối với việc sản xuất, cung ứng và sử dụng thuốc generic, thuốc chuyên khoa đặc trị, thuốc có dạng bào chế đặc biệt, vắc xin, sinh phẩm; ban hành chính sách ưu đãi cho việc nghiên cứu, sản xuất thuốc có nguồn gốc từ dược liệu Việt Nam mang thương hiệu quốc gia.

2. Giải pháp về quy hoạch: Quy hoạch nền công nghiệp dược theo hướng phát triển công nghiệp bào chế, hóa dược, vắc xin, sinh phẩm y tế, ưu tiên thực hiện các biện pháp sáp nhập, mua bán, mở rộng quy mô để nâng cao tính cạnh tranh; quy hoạch hệ thống phân phối thuốc theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và hiệu quả; quy hoạch phát triển dược liệu theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, phát triển vùng nuôi trồng cây, con làm thuốc, bảo hộ, bảo tồn nguồn gen và phát triển những loài dược liệu quý hiếm, đặc hữu;…

3. Giải pháp về thanh tra, kiểm tra và hoàn thiện tổ chức

4. Giải pháp về đầu tư: Đẩy mạnh huy động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư để phát triển ngành dược; Nhà nước đầu tư, hỗ trợ phát triển hệ thống cung ứng thuốc cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; khuyến khích đầu tư theo hình thức hỗn hợp công tư (PPP) đối với dự án xây dựng nâng cấp, xây mới cơ sở nghiên cứu dược; đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án có sử dụng đất để xây dựng nhà máy, khu công nghiệp dược.

6. Giải pháp về hợp tác và hội nhập quốc tế: Tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm, năng lực quản lý của các nước, Tổ chức y tế thế giới (WHO) và các tổ chức quốc tế để phát triển ngành Dược Việt Nam; tăng cường hợp tác với các nước là bạn hàng truyền thống của Việt Nam và các nước có nền công nghiệp dược phát triển.

Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký (Phong Lâm).